LTS: Nhiều người gửi thư hoặc gọi điện thoại đến hỏi chúng tôi rằng Mẹ Lavang có làm “Phép Lạ” không? Nói đến “phép lạ” thì chỉ có Tòa Thánh có thẩm quyền phán quyết, nhưng có nhiều trường hợp xảy ra mà người được ơn cảm thấy lạ lùng cho rằng Ðức Mẹ ban phúc… Những trường hợp như thế xảy ra khá nhiều. Vậy từ số này, chúng tôi sẽ ghi lại những câu chuyện mà người được ơn cho rằng Mẹ Lavang ban cho. Mở đầu cho “trang ơn lành của Mẹ Lavang”, chúng tôi xin đăng bài viết của Linh Mục Giuse ngô Văn Trọng, năm nay 82 tuổi, hiện ở Garden Grove, California gởi cho chúng tôi.
Khi còn ở Tiểu Chủng Viện An Ninh, Cửa Tùng, Quảng Trị, tôi rất mê đá bóng. Vào khoảng 19 tuổi, trong một trận túc cầu buổi chiều trên “nổng” An Ninh, khi tôi sắp “sút” vào gôn, cha Viry hậu vệ (Arrière) đưa dò ra đá cản tôi, cha cao đến 1m85! Thế là tôi nhào ba ngoai, trặc xương sống… Tôi được đưa vào bệnh viện Huế chữa mất hơn 2 tháng!
Mẹ La giúp tôi làm linh mục
Vào Ðại Chủng Viện Phú Xuân 1940, trong một trận đấu volleyball giữa Huế và Quảng Trị, tôi lại bị té nặng… Sau đó, tôi bị bán thân bất toại. Bệnh viện Huế chữa không khỏi. Tôi phải ngồi xe lăn lâu ngày. Ði lễ, đi học, đi đâu trong nhà cũng bằng xe lăn! Một hôm bà Nam Phương Hoàng Hậu đến thăm Ðại Chủng Viện, cha Giám Ðốc là cha JB Roux (Cố Ngôn) mời bà Nam Phương đi xem nhà. Khi đi ngang phòng liệt, cha Giám Ðốc cho bà Nam Phương biết trong phòng liệt có một thầy bị bán thân bất toại. Sau đó, bà Nam Phương đã giúp phương tiện để tôi vào Sàigòn chữa bịnh tại phòng mạch bác sĩ Quan, 210 Catinat. Chữa bằng quang tuyến X và acupuncture liên tiếp 4, 5 tháng. Kết quả, không khỏi chút nào!
Cha Giám Ðốc gọi về. Trở lại Huế, gặp kỳ nghỉ hè 1994, chỉ còn một tuần thì “tựu trường”, tôi và bà con tôi thất vọng hoàn toàn!
Thế nhưng, thân nhân tôi cũng thử một phen cuối cùng. Họ võng tôi đến đền thờ Ðức Mẹ Lavang. Họa may Ðức Mẹ thương nữa! Tôi xin cha sở Lavang cho phép tôi và bà con ở lại suốt đêm trong đền thờ. Tôi đã sốt sắng cầu nguyện, đồng thời cũng thách đố Ðức Mẹ: “Lạy Mẹ, nếu Mẹ muốn con làm Linh Mục, thì xin Mẹ chữa lành con. Bằng không thì…” Nhưng chẳng thấy gì hết! Thất vọng và hoàn toàn tuyệt vọng.
Mang tâm trạng tuyệt vọng, tôi trở về Huế. Tôi gặp cha linh hướng (Cha Audigou) để có ý quyết định dứt khoát. Cha linh hướng đồng ý với tôi. Nhưng phải đợi quyết định tối hậu của cha Giám Ðốc. Ngày tựu trường đã đến. Tôi đến gặp Cha Giám Ðốc. Vừa nhìn thấy tôi, Ngài nói: “A, thầy Trọng, mời thầy ngồi. Tôi biết thầy muốn nói gì rồi…” Ngài nói tiếp: “Nếu thầy đau đầu đau não, thì dầu thầy không xin tôi cũng cho thầy về. Còn đau lưng nhức xương… thì thầy hãy vâng lời tôi mà ở lại. Tôi không đòi thầy phải làm gì quá sức đâu… Ði lễ, đi đến lớp học ư? Sẽ có người đẩy xe đưa thầy đi.” Không được như ý, tôi lại thất vọng!
Tôi phải vâng lời mà ở lại. Rồi ngày qua ngày, đến tháng 11 năm 1944, tôi cảm thấy bệnh trạng thuyên giảm dần dần. Bắt đầu bước được một bước, rồi 2 bước. Rồi bỏ xe lăn, quẳng gậy. Ðến đầu tháng giêng năm 1945 tôi đi bộ một mình về Kim Long, sinh quán của tôi, xa khoảng 2 km. Rồi từ đó mỗi ngày khả quan hơn. Cho đến ngày 1-2-1946, tôi đã lãnh chức Linh Mục, tại trại giam các cha thừa sai Pháp, qua sự đặt tay của Ðức Cha FX Lễ (Lemasle).
Tôi tin chắc Mẹ Lavang đã soi sáng cho cha Giám Ðốc JB Roux (Cố Ngôn) khiến ngài cương quyết giữ tôi ở lại chủng viện. Và tôi đã được Chúa gọi làm thợ gặt trong cánh đồng lúa chín của Ngài tính đến nay đã 52 năm. Suốt đời Linh Mục tôi không quên ơn Mẹ Lavang.