Trời sinh cái chốn lạ lùng:
Tự nhiên giữa núi nên cung Chúa Bà:
Truyền rằng có một cây đa,
Mọc lên giữa núi diềm dà tốt tươi
Ngày thì hạc phụng dạo chơi,
Đêm thì hổ báo chầu nơi linh hoàng.
Chốn này thanh vắng nghiêm trang,
Hai bên khe ruộng giữ làng La Vang.
Bên lương chức dịch nhộn nhàng,
Đắp nền thờ vọng rào hàng sơ li.
Rằng: nầy một chốn uy nghi,
Ngoại mình khấn vái điều gì cũng linh.
Dân thôn chớ khá nại tình,
Công lao khó nhọc thần linh phù trì.
Qua đây thì phải kiêng vì,
Chốn nầy linh ứng nhiều khi lạ lùng.
Dầu ai vào chốn sơn trung,
Hễ đi đến đó nguyện cùng được an.
Những người mót củi đốt than,
Cũng đều đến đó kêu van khẩn hoài.
Dân ta chứ khá công nài,
Bứt tranh đốn củi để mai làm chùa.
Làm rồi khi ấy đi mua,
Hương đèn lễ vật dọn chùa sửa sang.
Dọn ra Thần, Phật hai hàng,
Lư hương bát nước nghiêm trang đề huề.
Làm rồi chức việc mới về,
Nhơn dân lao khó, ê hề bấy lâu.
Về nhà ngủ giấc canh thâu,
Tự nhiên mộng mị chiêm bao rập ràng:
Trên chùa Thần Phật nhộn nhàng,
Về bắt chức dịch mấy làng xôn xao.
Rằng Thần rằng Phật lao đao,
Có Bà trên đạo phép cao lạ lùng.
Bà vào Bà đánh tứ tung,
Bao nhiêu Thần Phật đều tuôn ra ngoài.
Tiếng Bà thật đã linh oai,
Lư hương, bát nước, đền đài đều hư.
Chức làng thức dậy lao lư,
Hỏi sao coi thử cũng như một điềm.
Sáng mai chức việc đi liền,
Kêu nhau đến thử sự thiềng làm sao.
Xét coi trong việc chiêm bao,
Hoặc hư hoặc thiệt thế nào cho yên.
Đem nhau mới tới ngoại viên,
Thấy ngôi Thần Phật ngã nghiêng ngoài đàng.
Kêu nhau khi ấy rộn ràng,
Kẻ sương người vác về làng cho mau.
Tưởng rằng Thần Phật linh mầu,
Đem về cúng tế mấy lâu nay tròn.
Không hay Phật giả yêu ngôn,
Tiếc vàng quang thiếp, tiếc son, tiếc dầu
Linh Bà người hóa phép mầu,
Thôi, ta phải kíp chạy mau về làng.
Cùng nhau bàn bạc rộn ràng,
Chùa này để cúng về đàng đạo nhơn.
Dở đi thì sợ người hờn,
Phá không dám phá thiệt hơn thể nào.
Tiếc công dân sự lao đao,
Ăn làm ba tháng lại hao của tiền.
Bây giờ Phật ở không yên,
Lo làm nơi khác tìm miền xứ Ran.
Sai người xuống dưới Thạch Hàn,
Tìm ông đạo cựu hỏi han một lời
Ông chức nghe tiếng làng mời,
Tức thì vội vã gót dời ra đi
Tới nơi hiệp mặt một khi,
Thuật ra tự sự vân vi cho tường.
Chỗ này linh ứng phi thường,
Chúng tôi xin cúng về đường đạo ông.
Chùa tranh một cái đã xong,
Vườn thời một bức trong vòng một nơi.
Bên ông gìn giữ cho Người,
Để lo vun quén tài bồi cây đa.
Chỗ này là chốn Chúa Bà,
Cho nên Thần Phật quỉ ma kiêng dè
Ông chức khi ấy liền nghe
Về thưa bổn sở cũng y mấy lời.
Bổn sở nghe nói liền cười,
Chúa Bà hóa phép ngoại người mới tin
Sai người lên ở giữ gìn,
Để lo kinh nguyện dầu đèn hôm mai
Nay ta lo lắng thơ bài,
Phải làm mà gởi các nơi nhà dòng.
Cùng đều khắp các nhà chung.
Mấy đời mà có lạ lùng như ri,
Các người đều lãnh thơ đi,
Kẻ thời ra Nghệ, người đi Kinh thành.
Nghe thơ kể việc đành rành,
Thảy đều khen ngợi thánh danh Đức Bà.
Tiếng đồn chóng thổi gần xa,
Thông qua biển cả huống là non sông.
Chùa tranh mưa tạt gió lồng,
Bốn bề trống trải màn mùng cũng không.
Người bèn ái ngại trong lòng,
Về thưa bổn sở để hòng tính phương.
Đi ra gần đỗi nửa đường,
Trên chùa Bà đã khiến sương vải vào.
Hai người buôn bán với nhau,
Tính toán giá vải trước sau cho rồi,
Mua rồi sắp sửa mọi nơi,
Để trong thùng nọ ngoài thời niêm phong
Dặn dò mai sớm rạng đông,
Đến đây sẽ trả cho xong giá tiền.
Hai người truyện vãn hàn huyên
Vải nầy tôi sắm để riêng may màn
Truyện rồi từ giã lên đàng,
Sớm mai lui lại hỏi han lấy tiền.
Ông từ bỡ ngỡ nói liền,
Bữa qua đi khỏi vải tiền ai mua,
Chốn này là chốn linh chùa
Đi ra cho khỏi, bèn xua tức thì.
Mụ ấy mới nói một khi,
Không tin chú giở hòm nầy cho coi.
Giở ra thật đã hẵng lời,
Tiền đồng một bó, vải thời năm cây.
Tức thì lấy trả tiền ngay,
Cùng ngồi nhắc lại cho hay sự tình.
Chú từ nghe nói thất kinh,
Về thưa cha sở cho minh việc nầy
Bấy giờ cha sở mới hay
Kể trong các việc là ngày bữa qua
Liền lấy thơ gởi gần xa,
Đưa tin cho biết Đức Bà linh thiêng.
Nhận thơ liền đọc lên liền,
Kẻ nghe người đọc hiệp tình chung vui.
Thơ rằng: “Chúa Cả Ba Ngôi
Hộ phù giáo hữu, vài lời thông tin
Rằng: Đức Mẹ hiện xuống thánh đền
Bồng Thánh tử trọng nên là trọng
Đội mão vàng sang quá đổi sang.
Rất oai vang chữa người bệnh hoạn
Hóa phép lạ cứu kẻ gian nan,
Những chúng sinh lâm nạn khổ bức,
Đều nhờ Mẹ trăm thức nhiệm mầu
Dẫu lương giáo khắp xứ đâu đâu,
Đều đến đó khẩn cầu khấn vái
Chốn Sơn Đài thế giái âu ca
Có cây đa tươi tốt diềm dà,
Mọc trên rú nọ hiệu là La Vang,
Các làng phù hiệp tính toan
Làm chùa thờ phật hỉ hoan tấm lòng
Hay đâu sự rất đỗii lạ lùng
Bà hóa phép, Phật cùng tan tác,
Đi về bắt làng nước thất kinh.
Bấy giờ mới rõ biết sự tình,
Xin cúng lại chùa tranh một cái.
Bức thơ nầy gởi cho ai nấy,
Đặng thông tin việc ấy cho tường.
Ngợi khen Thánh Mẫu Nữ Vương,
Oai quờn phép tắc độ lường khoan nhơn”.
Nay thơ
Xem thơ mới biết nguồn cơn
Chọn nơi thanh vắng cao sơn cứu người.
Từ ấy đồn thổi khắp nơi
Bên lương bên đạo mọi người kính tin.
Từ quan cho đến dân tình
Không con không cháu khẩn nguyền cũng cho.
Thiên hạ nhiều kẻ âu lo
Dẫu đi không thấu cũng cho như lời
Miễn là kêu đến tên Người,
Xin Người phù hộ một nơi linh đền.
Dầu ai cúng bạc cúng tiền,
Gởi đem vào đó khẩn liền được an.
Bà nầy phép tắc khôn đang,
Chết rồi cho sống mạnh an như thường.
Có người thất vận lạc đường
Lâm cơn túng rối lo lường kêu xin.
Bà cùng dắt díu giữ gìn,
Đưa về đến chốn bình yên như lời.
Có người vượt biển xa vời,
Lâm cơn sóng gió mở lời kêu van
Bà cho gió lặng sóng tan,
Có lòng trông cậy trăm đàng được xuôi.
Bất kỳ bất tiện ngái ngôi
Bất câu lương giáo khẩn rồi đặng yên
Dầu ai bệnh hoạn tật nguyền,
Đến nơi đền ấy khẩn liền cũng cho.
Dầu ai miệng méo tay co
Dầu mà suyển tức hen ho lành liền.
Ấy là Thánh Mẫu thượng thiên.
Chọn nơi thanh vắng giữa miền La Vang.
Ai lâm hoạn nạn gian nan
Đem lòng tin cậy đến van cùng Bà.
Kẻ thì trảy lá cây da,
Kẻ thì nhổ cỏ đem ra theo mình.
Thuốc đâu hiệu nghiệm oai linh,
Cho bằng lá cỏ xung quanh đền Bà,
Bứt lâu trụi lá cây đa,
Cây lâu cũng rụi, nay đà mất tang.
Miễn trong vườn thánh La Vang
Sim, me, tràm, chủi, lá vằng cũng hay
Dầu lá nọ, dẫu cỏ nầy,
Đem về sắc uống, kíp chầy bệnh thuyên.
Giáo lương năng đến khẩn nguyền
Thấy nhà tranh tạm không yên tấm lòng.
Giáo nhơn Dinh Cát giúp công
Tiền dâng bạc cúng cũng không thiếu gì.
Phen nầy chẳng dám diên trì,
Quyết làm đền ngói thay vì chùa tranh.
Đã lâu phép lạ vang danh,
Bề trên coi bộ chưa đành vội tin.
Truyền rằng: Đức Mẹ hiện hình
Tay bồng Ấu Chúa oai linh vô cùng.
Cứu người vô chốn sơn trung
Khỏi lâm vuốt hổ, miệng hùm, răng beo
Truyện nầy hư thiệt khó theo,
Làm nhà ở đó cheo leo trăm bề.
Ra vào hiểm hóc gớm ghê,
Nhà thờ làm đó nào hề ai vô.
Trước khi khỉ việc trình đồ
Để ta bàn tính hỏi dò bề trên.
Bề trên bổn sở hai bên,
Bàn rồi đi với mấy tên theo cùng,
Đi lên vừa giữa sơn trung
Sai đàng lạc nẻo, lạ lùng thể nao.
Lại nghe tiếng cọp nghêu ngao,
Hồn bay phách lạc, xôn xao bồi hồi.
Bây giờ trở đứng trở ngồi,
Ngồi đây cũng khốn, khứ hồi nan đi,
May đâu hai gã đồng nhi,
Kêu nhau hí hó mà đi tìm bò
Hai ngài trong bụng bớt lo,
Hỏi han hai đứa chỉ cho khúc đàng.
Lên vừa tới điện La Vang,
Thấy hình Đức Mẹ duông nhan tốt lành.
Nay đà mắt thấy đành rành,
Lòng bắt cảm động phục tình chẳng nghi.
Ra về trò chuyện vân vi,
Phen nầy ta phải tức thì lo toan.
Đền thờ Đức Mẹ La Vang
Phải xây chỉnh đốn, bạc vàng Chúa lo.
Nay mai ta phải làm thơ,
Để khuyên giáo hữu thuận tờ việc quan
Nghe thơ ai nấy hỉ hoan,
Không tiền dâng cúng, sẵn sàng dâng công.
Súc săng, gạch ngói gánh gồng,
Đàng xa khó nhọc, cũng không nề hà.
Sáu năm ngày lụn tháng qua,
Nhà thờ xây lợp cũng đà sự thanh.
Nay lo đến việc lạc thành,
Sắm sửa soạn sành để kiệu cho luôn.
Khắp nơi dưới biển trên nguồn,
Thôn quê dinh liễu cũng đồng đua tranh
Kinh kia bài nọ tập tành
Chế bài cách kiểu cho hoanh đội hàng.
Cân y mão phục đoan trang,
Náp, hèo, cờ, quạt, lọng tàn ba đăng
Soạn sành tập luyện mấy trăng,
Mười ba tháng bảy lòng hằng đợi trông
Có nơi nổi tính hăng nồng,
Lại thêm tập múa đội bông đội hèo.
Người đi bộ, kẻ thuyền chèo,
Trên đất dưới nước, cứ theo phận mình.
Mười ba tháng bảy thanh minh
Cổ Vưu sở tại đến trình thưa cha:
Chúng con xin kiệu Đức Bà,
Một vòng khắp họ kẻo mà nhớ thương.
Bấy lâu Mẹ ngự thánh đường,
Mai thì đưa Mẹ lên phường La-Vang.
Kiệu quanh khắp họ khắp làng,
Viếng thăm con cái họ hàng chúng con.
Cha nghe họ nói thon von
Cũng cho như ý kẻo còn nhỏ to.
Vậy thì đội ngũ kéo vô,
Truyền cho các chị các cô theo chầu.
Hoa đèn sắm dọn đã lâu,
Nay đem đấu xảo, lại chầu một khi.
Dẩu ai có tập đội chi,
Hoặc đèn hoặc náp cũng thi tối ngày.
Họ nào kinh nguyện tập hay,
Đem vô đấu xảo, sánh bày chê khen.
Cổ Vưu Ngô Xá đội đèn
Đem ra múa lộn, khá khen giải đầu.
Phủ Cam quyển sáo thổi chầu
Trống, đờn, sanh, quyển khá âu rập ràng
Bố Liêu kinh nguyện chững chàng.
Cung hay giọng tốt khá đang thuông lề,
Kẻ Văn cờ ảnh đã bề
Hội ven cung cách ai chê được rày.
Họ nầy họ nọ sánh bày,
Hoa đèn trau dọn là ngày mười ba,
Truyền về mười bốn sáng ra
Giờ Dần giờ Mẹo các Cha dặn dò;
Họ nào đình trú ở mô,
Đêm ra hiệu lệnh phải lo ra dàn.
Người ta trên bộ vô vàn,
Dưới sông dưới bến chứa chan thuyền đò.
Người qua kẻ lại trầm trồ,
Cùng nhau truyện vãn nhỏ to rộn ràng.
Vừa nghe lệnh, thảy lặng an
Sắp đâu có thẻ, cứ hàng mà đi
Từ đàng quan tới rú ri,
Hai hàng đội ngũ uy nghi chững chàng
Trống chiêng, pháo lói đầy vang,
Ca ngâm hát xướng nhịp nhàng êm tai.
Đỗi đàng ước bảy dặm dài
Người ta sắp đội gần hai phần đàng.
Các Cha lễ lạc vừa an,
Cũng đều áo mão sắp hàng đi ra.
Giữa thì lại có Đức cha,
Các thầy các chú điều hòa bước đi.
Sáu giờ chuông đánh một khi
Mới xem bàn kiệu uy nghi rõ ràng.
Cổ Vưu đội ngũ nghiêm trang,
Hầu cận bên bàn đưa Mẹ ngự lên.
Mặt trời mới mọc chênh chênh,
Nắng lò ánh giọi chói bên mặt người
Đám mây đâu phút dạo chơi,
Khắp cả hướng trời im mát lạ thay!
Để cho ai nấy đặng hay,
Nay thật là ngày Đức Mẹ đã ban.
Kiệu vô vừa đến La Vang
Liền chưng ảnh Mẹ trên bàn đặt cao
Hoa đèn kế tiếp sắp vào,
Đoạn làm lễ hát, rồi sau phép lành.
Mười giờ cơ cuộc hoàn thành,
Lao xao liến xiến, lữ hành kêu nhau.
Người bẻ lá, kẻ hái rau?.
Đem về cất lấy khi đau mà dùng.
Kéo nhau vào tạ thánh cung,
Tuy dầu lui gót dạ không muốn về
Ơn trên đượm nhuần phủ phê,
Một phen viếng Mẹ, mựa hề dám quên.