I. THỜI KỲ SƠ KHAI (1798 – 1894)
Không có căn cứ để xác định ngôi nhà thờ tranh La Vang đầu tiên được thành lập từ năm nào. Có điều chắc chắn, cho đến cuối thế kỷ 19, những ngôi nhà thờ tại La Vang chỉ là những nhà tranh vách đất, một kiểu nhà nghèo thường thấy ở nông thôn miền Trung. Tuy nhiên, dựa vào những nét chấm phá của lịch sử La Vang thế kỷ 19, có thể nhận dạng những ngôi nhà thờ tranh La Vang vào thời kỳ sơ khai.
1. NGÔI NHÀ THỜ TRANH LA VANG ĐẦU TlÊN TỪ NGÔI CHÙA
Năm 1801, Nguyễn Ánh phục quốc, nhà Tây Sơn bị diệt vong, hết bắt đạo. Giáo dân hồi hương về làng cũ. La Vang trở lại cảnh rừng thiêng hoang dã, ít người lui tới ngoại trừ những nông phu đi làm rú.
Người xưa kể rằng những lương dân đi làm rú thường hay đến van vái tại gốc cây đa cổ thụ, nơi tương truyền có bà linh thiêng hiện ra mà họ nghi vấn biết đâu đó không phải là Đức Bà của bên đạo mà là bà tiên, bà thánh của bên lương? Nghĩ thế họ liền đắp lên một nền thờ vọng và rào sơ tứ phía.
“Bên lương chức dịch nhộn nhàng
Đắp nền thờ vọng rào hàng sơ li”
Đầu thời Minh Mạng, khoảng năm 1820, lương dân ba làng Thạch Hãn, Cổ Thành và Ba Trừ chung nhau làm một ngôi chùa tranh trên nền thờ vọng ấy. Nhưng vừa làm xong các vị chức sắc cả ba làng, ứng nghiệm điềm chiêm bao, biết đây là nơi ngự của Đức Bà bên đạo, liền đồng thuận nhượng cúng ngôi chùa cho người công giáo.
“Cùng nhau bàn bạc rộn ràng
Chùa này để cúng về đàng đạo nhơn”
Nhận đất và ngôi chùa nhượng cúng, những người công giáo về trình lại sự việc cho cha sở và theo sự sắp đặt của ngài, ngôi chùa tranh đã được sửa đổi thành ngôi nhà thờ tranh. Và đó là ngôi nhà thờ tranh đầu tiên tại La Vang.
Ngôi nhà thờ tranh này tồn tại được bao lâu thì chưa đủ cứ liệu để khẳng định. Có điều chắc chắn rằng trong 29 năm (1833 – 1862) bắt đạo ác liệt thời Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức thì ngôi nhà thờ tranh này cũng như số phận tất cả những ngôi nhà thờ trên toàn lãnh thổ Việt Nam khó lòng tồn tại.
2. NGÔI NHÀ THỜ TRANH THỨ HAI
Sau hòa ước Nhâm Tuất 1862, vua Tự Đức ban hành chỉ dụ tha tháp, việc đạo được bình yên. Đức cha Sohier Bình sau chuyến công du châu Âu trở về dự định mở mang thánh địa La Vang, nhưng bất thành vì việc sang nhượng đất La Vang không có kết quả. Đức cha chuyển hướng đưa công trình vào Ba Trục (Thanh Tân). La Vang mất cơ hội.
Tuy nhiên, trước đó đã có những cuộc hành hương băng rừng vượt núi vào La Vang kính viếng Đức Mẹ do giáo xứ Cổ Vưu tổ chức. Bắt đầu từ Mùa Chay năm 1864, trùm hạt PX LêThiện Thìn, một tù nhân mới được tha về từ trại phân tháp, lãnh ý cha sở tập trung khoảng 30 giáo dân Cổ Vưu tổ chức hành hương La Vang. Họ khởi hành từ Cổ Vưu vào lúc rạng sáng, vừa cung nghênh tượng Mẹ, vừa cầm gậy gộc, giáo mác, đánh phèng la, khua chiêng khua trống đề phòng thú dữ, vạch lá rừng mà đi.
Những cuộc hành hương như thế diễn ra hằng năm và số giáo dân tham dự càng lúc càng đông biến cuộc hành hương La Vang cấp giáo xứ (Cổ Vưu) thành giáo hạt (Dinh Cát)
Thiết nghĩ trong những lần hành hương như thế há lại không có chỗ dừng chân, đặt tượng Mẹ, hội họp đọc kinh và cử hành các nghi thức phụng vụ? Vả lại bấy giờ là thời bình yên, việc đạo được tự do, La Vang đã là một họ nhánh thuộc giáo xứ Cổ Vưu, không có gì khó khăn cho việc tái lập một nhà thờ tranh trên nền cũ .
Ngôi nhà thờ tranh La Vang thứ hai tất yếu phải được xây dựng vào thời kỳ này, được tu bổ theo năm tháng và tồn tại trong khoảng 20 năm, cho đến ngày bị thằng Thơ đốt vào dịp Văn Thân cực đoan thảm sát giáo phận Huế (1885).
+ CHUYỆN THẰNG THƠ ĐỐT NHÀ THỜ LA VANG
Sau khi thiêu sát họ Cổ Vưu vào ngày 07.09.1885 xong, hôm sau, ngày 08.09.1885 quân Văn Thân kéo nhau vào phường La Vang. Chúng thấy cảnh vườn không nhà trống vì giáo dân La Vang đã hoảng sợ chạy lên núi cả, bèn vơ vét của cải, đốt nhà cửa, bắt trâu bò, chỉ chừa lại ngôi nhà thờ tranh vì nghe tiếng Đức Bà linh thiêng không dám đốt. Xong việc chúng kéo nhau đi.
Trưa ngày 09.09.1885, một người lương ngụ ở làng Phú Long, xóm Bốc, tên là Thơ, con ông Mẹo lảng vảng đến La Vang với ý định hôi của, nhưng thấy tất cả nhà cửa người công giáo nơi đây đã thành đống tro tàn chẳng còn gì để kiếm chác. Sực thấy ngôi nhà thờ tranh La Vang vẫn đứng yên như chọc tức nó, sẵn ác cảm với đạo, nó châm lửa đốt luôn.
Ngay hôm ấy quân Văn Thân thấy La Vang có lửa cháy nghi có chuyện gì chăng bèn rủ nhau trở lại La Vang dò xem động tĩnh. Chúng hỏi thăm biết thằng Thơ đã cả gan làm một việc mà chúng không dám làm: đốt nhà thờ La Vang! Tức giận chúng kéo nhau tới nhà ông Mẹo chưởi bới rồi phóng hỏa đốt cả nhà trên nhà dưới. Ông Mẹo, thằng Thơ và vợ con nó đều làm mồi cho ngọn lửa.
+ HlẾN LỄ TOÀN THIÊU TẠI NỀN NHÀ THỜ LA VANG
Trong cuộc thảm sát tại giáo xứ Cổ Vưu, một số giáo dân may mắn thoát được trốn lên La Vang, vào rừng sâu lánh nạn. Lâu ngày đói khát lần mò trở lại nhà dân xin khoai sắn. Bỗng nghe tiếng kèn tây từ Quảng Trị vọng lên. Họ rủ nhau về hướng ấy thì gặp cha Allys (cố Lý – sau là Giám mục), được ngài cho ăn uống.
Biết tỉnh thành đã bình yên nhiều người trong họ trở lên La Vang tìm báo cho thân nhân bạn bè kêu ai về nhà nấy. Không ngờ, một vài nơi dư đảng Văn Thân còn say máu, lẩn quẩn quanh khu vực La Vang chờ chém giết. Một toán 30 giáo dân Cổ Vưu bị bắt khi vừa rời khỏi bìa rừng. Ông Thoàn xin cho cả toán được chết trên nền nhà thờ La Vang vừa bị thằng Thơ đốt. Quân Văn Thân trói ông Thoàn và 29 giáo dân lại thành chùm chất củi hỏa thiêu. Xa xa vẳng tiếng kèn Tây thắng trận.
3. NGÔI NHÀ THỜ TRANH THỨ BA
Hết thảm họa Văn Thân tình hình xứ Dinh Cát trở lại bình yên, giáo dân La Vang bỏ rừng núi trở về tái lập nhà cửa, ổn định cuộc sống. Không ai khỏi chạnh lòng khi chứng kiến ngôi nhà thờ tranh nhỏ bé thân thương, nơi sớm hôm có bóng Mẹ từ bi, nay chỉ còn nền hoang. Họ tập trung đi rừng đốn gỗ, bứt tranh, chặt tre làm lại ngôi nhà thờ khác trên nền nhà thờ cũ đã bị đốt trong biến cố Văn Thân.
Ngôi nhà thờ tranh La Vang thứ ba ra đời ngoài ý nghĩa lưu dấu nơi Đức Mẹ đã đứng khi hiện ra còn là nơi minh chứng máu đào đức tin của con cái Mẹ đã đổ xuống.
Trong BÁO CÁO NĂM 1894 cha sở Cổ Vưu kiêm quản hạt Quảng Trị Patinier Kinh cho biết: “Năm 1885 ngôi nhà thờ ở đây cũng như những nhà thờ khác trong hạt, không thoát khỏi thảm họa… Khi hoà bình vừa vãn hồi, con đã cấp tốc dựng lại ngôi nhà thờ nhỏ bé, tạm bợ để chờ nguồn kinh phí cũng như để chờ cho tình hình bớt nhiễu nhương…”
Nhà thờ tranh thứ ba tồn tại được bao lâu? Điều này lệ thuộc vào việc khởi công ngôi nhà thờ ngói được xây trên nền nhà thờ tranh. Nhưng nhà thờ ngói được khởi công năm nào?
Trở lại BÁO CÁO NĂM 1894, cha Patinier Kinh cho biết: ” Vừa trở về, con đã kêu gọi tất cả giáo dân thiện chí giúp vận chuyển số gỗ xây dựng lên núi. Vào ngày đã định, giáo dân trong phạm vi sáu dặm tập trung đông đủ, chia nhau vác gỗ và chỉ trong hai chuyến toàn bộ gỗ đã được tập kết tại La Vang… Hôm sau bộ giàn trò được dựng lên, giờ thì chỉ còn lo việc hoàn thành nhà thờ.”
Vậy ngôi nhà thờ tranh La Vang thứ ba chỉ tồn tại khoảng 9 năm, từ cuối năm 1885 dấn năm 1894.
lI. THỜI KỲ PHÁT TRIỂN (1894 – 1960)
1. NGÔI NHÀ THỜ NGÓI
Năm 1885 khi danh tiếng Đức Mẹ La Vang, qua nhiều ơn lành hồn xác Mẹ ban, đã vượt địa phân Huế, Đức cha Caspar Lộc quyết định cho xây dựng tại La Vang một ngôi nhà thờ ngói. Mọi vật liệu cần thiết đã được chuẩn bị. Dự định khởi công vào năm 1886. Chẳng may giáo phận Huế lâm nạn Văn Thân nên trễ mất 9 năm, 1894, mới thực hiện được. Nhà thờ ngói được Đức cha Caspar Lộc làm phép và khánh thành vào dịp Đại Hội La Vang lần thứ nhất, với tước hiệu Đức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu.
Tháp cổ La Vang
Đó là ngôi nhà thờ được thiết kế “bên trong theo kiểu cách Annam, vừa chứa đặng vài trăm người. Mặt tiền có hơi theo kiểu Tây. Bề ngang nhà thờ thì nhỏ mà trước có hai tháp dang ra hai bên nên coi trước mặt tiền tưởng là lớn… Trên bàn thờ có tượng ảnh Đức Chúa Bà mua bên Tây, một bên có Đức Chúa Giêsu đứng là Notre Dame des Victoires, lối một thước hai bề cao, có lồng kính chung quanh nên tượng ảnh còn mới hoài. Dưới bàn thờ có tượng ảnh Đức Bà Môi Khôi, có ông thánh Đôminicô và bà thánh Catarinà chầu”
Chính diện mặt tiền nhà thờ ngói, phía trên cửa ra vào in nổi năm chữ nôm LA VANG CUNG CHỦ MẪU (LA VANG CUNG ĐIỆN MẸ CHÚA TRỜI = ĐỀN THỜ ĐỨC MẸ LA VANG).
Nhà thờ ngói tồn tại được bao lâu? Không thể dựa vào năm khởi công xây dựng đền thánh mới để xác định vì đền thánh mới được xây dựng ở vị trí khác, không cần thiết phải triệt hạ cái cũ để làm cái mới. Trong hồi ký viết tay cha Mathêô Lê Văn Thành cho biết: “Vào tháng 05.1925 lúc ngài (cha Giacôbê Kinh) làm phó xứ Cổ Vưu…, lúc Linh mục Morineau Trung vào tĩnh tâm ở Huế ngài thay thế lên La Vang đôn đốc công việc triệt hạ ngôi nhà thờ cũ.” Đúng vậy, vào một tối tháng 05.1925, căn gần tháp tự động đổ xuống. May mà giáo hữu đọc kinh tối xong vừa mới ra về .
Vậy có thể xác định nhà thờ ngói tồn tại được 25 năm (1900 – 1925), nay chẳng còn dấu tích gì ngoại trừ bức tranh vẽ THÁNH ĐƯỜNG LA VANG mà Đức Mẹ đã soi đường dẫn lối cho một họa sĩ ngoại giáo tài hoa – ông ký vẽ Nguyễn Khắc Nhân – lưu truyền hình ảnh ngôi nhà thờ ngói cho đến ngày nay.
THÁNH TƯỢNG ĐỨC MẸ LA VANG
Trong dịp Đại Hội La Vang lần đầu tiên – khánh thành nhà thờ ngói vào ngày 08.08.1900, Đức cha Caspar Lộc đã cung thỉnh bức thánh tượng Đức Mẹ La Vang theo mẫu tượng Đức Bà Chiến Thắng đặt trong ngôi nhà thờ ngói.
“Đức Mẹ mặc áo choàng màu thiên thanh, phủ trên áo trắng ngà, đầu đội triều thiên vàng, chân đứng trên đám mây. Đức Mẹ nhìn đàn con, nét mặt dịu hiền, dáng điện uy nghi. Hai tay Mẹ nâng đỡ Chúa Hài Đồng đứng bên tay mặt như muốn đưa ra giới thiệu cùng chúng ta, trao ban cho chúng ta. Chúa Giêsu Hài Đồng thật duyên dáng trong bộ áo màu hồng, đầu đội triền thiên, chân đứng trên quả địa cầu lấp lánh mấy vì sao. Chúa Hài Đồng một tay níu áo Mẹ, nương tựa vào Mẹ như để làm gương cho ta, một tay giơ ra như để mời gọi ta chay đến cùng Mẹ để tỏ lòng hiếu thảo mến yêu và lãnh nhận muôn ơn lành nhờ lời Mẹ chuyền cầu”
Bức thánh tượng quý giá này đã bị hủy hoại trong cuộc chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, nay không còn nữa.
2. GIẾNG ĐỨC MẸ
Năm 1903, khi lên chăm sóc vườn Mẹ, cha phó Cổ Vưu Giuse Nguyễn Xuân Cảnh đã cho đào một giếng đất ngay trước nhà thờ ngói. Giáo dân quen gọi là GIẾNG ĐỨC MẸ.
Nước giếng Đức Mẹ không trong lắm nhưng có vị ngọt và mát, không bị ô nhiễm bởi môi trường bên ngoài nên có thể uống ngay, không cần nấu chín.
Vẫn biết nước giếng Đức Mẹ là nước uống bình thường không mang dược tính gì cả, nhưng từ truyền khẩu ngày xưa đến thực tế ngày nay nhiều bệnh nhân uống nước giếng Đức Mẹ mà được lành các bệnh tật là do bởi lòng thành kính cậy tin quyền phép Đức Mẹ được Mẹ ban ơn lành theo ý nguyện mà thôi.
Ngày nay, hơn một thế kỷ trôi qua, giếng Đức Mẹ vẫn được bảo quản sạch đẹp, vệ sinh làm tăng vẻ mỹ quan vườn Mẹ, nhưng trên hết giếng Mẹ là một bảo chứng tình yêu tuyệt vời đối với con cái Mẹ. Từ mạch tự nhiên này, biết bao ơn lành hồn xác Đức Mẹ đã đổ xuống cho con cái Người.
3. ĐỀN THÁNH LA VANG
Trong dịp Đại Hội La Vang 8 (1923), Đức cha Allys Lý nhận thấy số giáo dân hành hương ngày một đông, ngôi nhà thờ ngói thì quá chật hẹp, lại đã xuống cấp, có thể sụp đổ bất cứ lúc nào nên đã quyết định xây dựng ngôi đền thánh rộng lớn tại La Vang. Đức cha đã giao phó trọng trách này cho cha sở Cổ Vưu.
Ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức 11.02.1924, cha sở Cổ Vưu Morineau Trung phát hiệu lệnh khởi công xây dựng đền thánh La Vang theo đồ án của kiến trúc sư Carpentier, với mức kinh phí dự trù tối thiểu phải hai mươi ngàn đồng bạc.
Ròng rã bốn năm trời với biết bao công sức tiền của đổ ra, công trình Đền Thánh La Vang vĩ đại đã hoàn thành ngoại trừ phần tháp chuông chưa xong.
“Ngôi thánh đường với hai tầng mái và hai cánh thánh giá cổ điển, cùng với cây tháp vuông hai tầng cao ngất nổi bật lên giữa cảnh đồi cát chung quanh và núi rừng xa xa. Đây là ngôi nhà thờ ngói thứ hai minh chứng lòng thành kính Đức Mẹ La Vang của giáo dân toàn quốc.”
08 giờ sáng ngày 20.08.1928, ngày đầu trong tam nhật Đại Hội La Vang 9, Đức cha Allys Lý đã long trọng cử hành nghi thức làm phép nhà thờ mới. Còn nghi thức làm phép chuông, cũng do Đức cha Allys cử hành nhưng chậm hơn, vào ngày chúa nhật 30.09.1928.
Qua năm tháng Đền Thánh La Vang bị hư hại nặng. Năm 1959, cha sở La Vang Giuse Trần Văn Tường cho trùng tu, thay toàn bộ tuồng gỗ bằng vài sắt Eiffel, lợp lại mái ngói và đóng trần mới.
4. NHÀ CHA SỞ
Song song với việc xây dựng Đền Thánh, một căn nhà ngói làm nhà cha sở cũng được hoàn thành. Đời cha sở Trần Văn Tường, nhà được nâng cấp thành căn lầu rộng rãi khang trang, vừa làm nhà cha sở, vừa làm nhà tĩnh tâm cho 100 Linh mục đến La Vang trong các dịp lễ lớn.
Căn nhà này bị sụp đổ trong chiến tranh. Thời cha E.Gioang được sửa chữa vừa làm nhà cha sở vừa làm nhà nguyện. Sau này cha Giuse Toại cho cải tạo thành nhà Trung Tâm.
5. LINH ĐÀI BÁT GIÁC
Để chuẩn bị Đại Hội La Vang 13 (1955), Linh mục trưởng ban tổ chức Mathêô Lê Văn Thành, được sự đồng thuận của Linh mục hạt Quảng Trị, đã cho xây linh đài Đức Mẹ ngay vị trí bàn thờ trong nhà thờ ngói cổ tức là nơi Đức Mẹ đã đứng khi hiện ra. Để xác định, Linh mục Lê Văn Thành cho biết: “Vào tháng 05.1925… Một buổi tối nọ, ngài (Lm Giacôbê Kinh) bảo mấy ông thợ mộc chuốt cho ngài một cọc lim vót nhọn, rồi với hai người khỏe mạnh đóng sâu dưới bàn thờ. Xong công việc ngài lắp đất lại, yêu cầu hai người giúp việc tuyệt đối giữ bí mật. Đã 30 năm qua, nay bắt tay vào tìm kiếm cái cột lim, ba mươi người đào xới cả vùng trên nền nhà thờ cũ thật vất vả. Cuối cùng tìm được cái cột lim nằm sâu dưới đất.”
Linh mục Mathêô Lê Văn Thành “cho mời ông Hồ Văn Hải, kỹ sư công chánh hồi hưu, một tân tòng có lòng sùng kính Đức Mẹ. Là nhà thầu khoán, ông thiệt kế một đài Á Đông kiểu tám góc… Sau khi được sự đồng ý, ông khởi công và chỉ nửa tháng xây cất đài Đức Mẹ được hoàn tất…”
Thánh tượng Đức Mẹ La Vang – Đức Bà Chiến Thắng có từ năm 1900 được cung thỉnh đặt chính giữa bàn thờ trong Linh đài Bát Giác.
Linh đài Bát Giác hiện nay không còn nữa, đã nhường chỗ cho linh đài ba cây đa nhân tạo. Nhưng ba cây đa nhân tạo được xây “lùi về phía sau độ 15 thước”, nên Linh đài Bát Giác – địa điểm theo tương truyền Đức Mẹ đã đứng khi hiện ra là trước Linh đài ba cây đa nhân tạo khoảng 15 thước.
III GIAI ĐOẠN KIẾN THIẾT TRUNG TÂM THÁNH MẪU TOÀN QUỐC LA VANG (1961 – 1963)
Trong phiên họp ngày 13.04.1961 Hội Đồng Giám Mục Miền Nam đã đồng thanh quyết định La Vang là Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc và chọn đền thánh La Vang làm đền thờ khấng dâng trái tim vẹn sạch Đức Mẹ. Đồng thời chấp thuận một chương trình kiến thiết Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang.
1. VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG LA VANG
Để thi hành lời khấn hứa, đền thánh La Vang được đặt bốn bàn thờ cẩm thạch lấy từ núi Ngũ Hành Sơn. Một bàn thờ chính dâng kính Đức Mẹ và ba bàn thờ phụ dâng kính các thánh tử đạo ba miền Bắc, Trung, Nam. Đồng thời được chỉnh trang để chuẩn bị đón nhận tước hiệu Vương Cung Thánh Đường.
Sáng 22.08.1961, ngày xức dầu đền thánh, cũng là ngày cuối cùng trong 6 ngày Đại Hội La Vang 15, trước hàng giáo sĩ và 300.000 giáo dân, Đức ông De Nitris, thư ký Tòa Khâm Mạng, đại diện Tòa thánh tuyên đọc nguyên văn bằng La ngữ sắc chỉ MAGNO NOS SOLATIO của Đức Thánh cha Gioan XXIII nâng Đền Thờ La Vang lên bậc VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG. Linh mục Nguyễn Văn Lập phụng dịch Việt ngữ và đọc lại toàn bộ bản văn từ đầu đến cuối. Tiếp đó, Đức Tổng Giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục tuyên bố: “Kể từ nay Vương Cung Thánh Đường và khu vực La Vang là Nhà của Mẹ, Đất của Mẹ, là Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc.”
Vương Cung Thánh Đường La Vang – Đền Thánh La Vang tồn tại được 44 năm (1928 – 1972), bị bom đạn phá hủy hoàn toàn trong cuộc chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Nay chỉ còn di tích tháp chuông.
2. LINH ĐÀI BA CÂY ĐA NHÂN TẠO
Dựa theo lời truyền tụng “Đức Mẹ hiện ra trên đám cỏ, dưới gốc cây đa”, ban kiến thiết Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang, đứng đầu là Đức TGM Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục đã chấp thuận đồ án linh đài ba cây đa nhân tạo của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Đó là công trình mới lạ, tân kỳ, tái tạo quang cảnh nơi Đức Mẹ hiện ra với ba cây đa bằng bê tông cất thép cao từ 16,50 đến 21,00 mét, vươn mình trên một đồi đá hình đa giác, với những bậc thềm to nhỏ, rộng hẹp, cao thấp khác nhau. Chính giữa là bàn thờ bằng đá cẩm thạch Ngũ Hánh Sơn. Thánh tượng Đức Mẹ La Vang, mẫu tượng Đức Bà Xuống ơn ngự trên cao, chính điện, trên một khối đá cẩm thạch vuông vắn khác.
Đây là bức thánh tượng thứ ba được tôn kính tại La Vang, mẫu tượng mới với chủ đề hoàn toàn khác với hai mẫu tượng cũ Đức Bà Chiến Thắng do Đức cha Caspar Lộc và cha sở GiuseTường cung thỉnh.
Linh đài ba cây đa nhân tạo được khởi công ngày 20.06.1963, vừa xong phần bê tông cốt thép, chưa có phần trang trí mỹ thuật bên ngoài thì bị đình đốn do biến cố ngày 01.11.1963 xảy ra. Hơn 40 năm qua, linh đài vẫn tồn tại nguyên trạng ban đầu.
3. CÔNG TRƯỜNG MÂN CÔI
Là khuôn viên trước đền thờ, đã hoàn thành với diện tích 30 x 480 mét, rải đá, tráng nhựa. Hai bên là 15 pho tượng bằng đá cẩm thạch được chạm khắc công phu theo nghệ thuật hiện thực – loại hình nghệ thuật tượng thánh thường thấy – diễn tả Mười Lăm Mầu Nhiệm Mân Côi.
4. HAI HỒ TỊNH TÂM
Đó là hai khoảng ruộng trước đền thờ rộng 6 ha, đã đào xong với 30.000 ngày công do giáo dân Huế tự nguyện. Theo thiết kế, hồ được tạo hình theo kiểu hồ Tịnh Tâm thành nội Huế, giữa mỗi hồ có một cù lao nhỏ, bên hồ này xây đài kỷ niệm các đấng Chân Phước tử đạo Việt Nam, bên hồ kia xây đài kỷ niệm các đấng bổn mạng xứ truyền giáo. Nội dung phần này chưa thực hiện.
5. NHÀ TĨNH TÂM
Khởi Công ngày 24.04.1962. Hoàn thành và đưa vào sử dụng tháng 10.1963. Đó là ngôi nhà lầu bê tông tường gạch một tầng, hình chữ U, ngang 10 mét, rộng 36 mét, cộng với hai cánh, mỗi cánh 12 mét. Được thiết kế gồm nhiều phòng ngủ, hội trường, phòng đọc sách, phòng giải trí, nhà xe, nhà bếp, và nhà ăn 500 khẩu phần một lúc.
6. NHÀ HÀNH HƯƠNG HAY NHÀ ĐẠI CHÚNG
Đối diện nhà Tĩnh Tâm, gần như cùng kích thước và kiểu dáng như nhà Tĩnh Tâm. Được dùng làm nơi lưu trú cho khách hành hương nên quen gọi là nhà Đại Chúng.
7. CÔNG TRƯỜNG THÁNH TÂM
Đã hoàn thành với tượng đài Kitô Vua đứng trên quả cầu hình bán nguyệt. Một bàn thờ bằng đá cẩm thạch lộ thiên dưới chân tượng. Một hồ nước trong xanh phía trước và một hoa viên tươi tốt bao quanh.
8. HỒ GIÊNÊZARÉT
Hồ nước không rộng lắm, với hai cầu vồng bắc qua hồ, mỗi cầu rộng 6 mét dài 30 mét, nối liền lộ trình Đền Thánh – Đồi Calvariô – Đền Thánh. Đây là lộ trình chính dành cho các cuộc kiệu lớn.
9. NHỮNG CÔNG TRÌNH KHÁC
Ngoài ra, một hệ thống đường sá, điện nước, mương cống, nhà vệ sinh… cũng đã và đang gấp rút được hoàn thành.
Riêng chỉ với những công trình kiến thiết trên đây thôi cũng đã khiến La Vang “phảng phất như một lâu đài thiên quốc…, một kinh thành ánh sáng…, một mảnh thiên đàng rớt xuống miền rừng núi hoang vu.”
Thật đáng tiếc, những công trình kiến thiết La Vang và những công trình dự kiến (nới rộng đền thờ, xây cổng tam quan, dựng diễn đài, lễ đài kiểu đàn tế Nam Giao, đồi Calvariô, mười bốn chặng đàng thánh giá, lập dòng chầu Thánh Thể, dòng Thừa Sai và một hệ thống kiều lộ, điện khí, dẫn thủy…) phải đình đốn do cuộc chính biến ngày 01.11.1963 lật đổ và hạ sát tổng thống Ngô Đình Diệm, bào đệ của Đức Tổng Giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục. Bấy giờ Đức Tổng đang dự Công đồng Vatican II ở Rôma không thể trở về và mãi mãi không thể trở về Việt Nam nữa.
Những năm tiếp theo, cho đến ngày chiến tranh tàn phá quê Mẹ, hoàn cảnh không cho phép tiếp tục công cuộc kiến thiết Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang, ngoại trừ vài công trình nhỏ như nền lục giác được cha sở GB Nguyên Văn Đông cho xây dựng ngay trước Vương Cung Thánh Đường, tạm thời làm lễ đài phục vụ Đại Hội La Vang 17 (1970).
Chắc hẳn ý Mẹ muốn con cái Mẹ phải hòa mình vào cuộc hành trình đau thương của dân tộc mà điểm mốc là cuộc chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, toàn bộ công trình kiến thiết tại La Vang, ngoại trừ linh đài ba cây đa nhân tạo, đã bị phá hủy hoàn toàn.
“Chiến cuộc năm 1972 đã gây nên tổn thất vô cùng nặng nề cho Linh địa La Vang. Theo ghi nhận của những nhân chứng tại chỗ, toàn bộ khu vực La Vang đổ nát, đền thờ tróc hết mái và đổ sập thành một đống cao. Các dãy nhà khác trong linh địa như nhà cha sở, nhà Tĩnh Tâm, nhà Đại Chúng, nhà dệt, nhà đèn, tu viện MTG đều sập nát tan tành. Thánh đường chỉ còn lại một bức tường găm đầy vết đạn và bùn đất. Cây cối tàn rụi, chỉ còn vài thân cây đứng vững nhưng xác xơ và sần sùi dấu vết đạn bom. Công trường Mân Côi bị bom đạn cày xới lỗ chỗ. Nhiều bức tượng trong quần thể Mười Lăm Mầu Nhiệm bị tan nát hoặc bị sứt mẻ trầm trọng. Hầm hố chằng chịt, xác chết ngổn ngang, ruồi nhặng đầy tràn, mùi tử khí tỏa ra khắp Linh địa La Vang. Chỉ còn ba cây đa nhân tạo nơi đài Đức Mẹ là vẫn đứng vững, nguyên vẹn. Dấu tích hoang tàn kéo dài đền năm 1975.”
Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền than thở: “Công trình của bao năm gầy dựng hầu như mất cả rồi!”
IV. THỜI KỲ TÁI THIẾT (TỪ 1975 VỀ SAU)
A. TÁI THIẾT LA VANG THỜI KHÓ KHĂN VÀ TẾ NHỊ (1975 – 1995)
1. NHÀ THỜ TẠM BẰNG TÔN
Tháng 05.1975, cha sở Trí Bưu Tôma Lê Văn Cầu cho dời ngôi nhà thờ tôn mà hai năm trước đó ngài đã tái lập tại La Vang Thượng về dựng ngay trước Vương Cung Thánh Đường sập nát.
2. NHÀ NGUYỆN, NHÀ CHA SỞ
Cuối năm 1975, bộ đội rút hết khỏi vườn Đức Mẹ, cha sở E. Nguyễn Vinh Gioang cho sửa lại ngôi nhà lầu (nhà cha sở cũ) đã sập nát, dùng tầng trệt làm nhà nguyện. Sau đó mỗi năm làm một ít : phòng cha sở, phòng khách, phòng lưu niệm, phòng nhân viên, rạp che mưa nắng, nhà bếp, nhà vệ sinh…
3. HÀNG RÀO SẮT BAO QUANH ĐÀI ĐỨC MẸ
Trong hoàn cảnh an ninh còn phức tạp, linh đài Đức Mẹ dễ bị xâm phạm. Có kẻ tiểu tâm dọa phá tượng Đức Mẹ nên cha sở cùng giáo dân phải tìm đủ mọi biện pháp canh phòng, thường là thay phiên ngủ tại đài. Để công việc bảo vệ linh đài có hiệu quả và lâu bền, cha sở cho làm hàng rào sắt bao quanh. Hiện nay vẫn còn.
4. HÀNG RÀO CÔNG TRƯỜNG MÂN CÔI
Công trường Mân Côi bị bom đạn cày nát, loang lở như một bãi đất hoang. Đã thế xe cộ ra vào như nơi công cộng khiến công trường càng nham nhở lầy lội hơn, buộc lòng cha sở và giáo dân phải họp nhau rào lại bằng cách hàn những cột điện sắt với nhau để tạm thời ngăn chặn sự phá hoại, bảo vệ công trường được chừng nào hay chừng ấy.
5. TRÁNG XI MĂNG SÂN, ĐƯỜNG, SỬA CHỮA GIẾNG ĐỨC MẸ
Đúc xi măng khoảng sân đất gồ ghề trước đài Đức.Mẹ, tráng xi măng nhiều con đường trong vườn Mẹ và sửa chữa lại giếng Đức Mẹ đã bị hư hỏng theo thời gian.
Những công việc trên tuy không lớn lao, nhưng thời buổi khó khăn, tài chánh eo hẹp nên phải làm lần hồi trong nhiều năm.
6. CHỈNH TRANG KHUÔN VIÊN VƯỜN ĐỨC MẸ
Chỉ riêng công tác vệ sinh, dọn dẹp những đống đổ nát do chiến tranh để lại đã là một gánh nặng. Giáo dân ít, kinh phí không có, bom mìn đe dọa nên mọi việc đều công phu và thận trọng.
Vì vậy, chỉnh trang vườn Đức Mẹ là một công việc lâu dài. Linh mục Nguyễn Vinh Gioang cho biết đã khởi sự từ năm 1975 và phải mất gần 20 năm mới xong. Công trình được thực hiện từng tấc, từng thước. Khi thì làm vào buổi sáng sớm, khi thì làm vào buổi chiều tối. Khi làm được một chút rồi nghỉ, khi phải gián đoạn nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm mới tiếp tục lại được.
Đứng ngoài nhìn, đập vào mắt là một khuôn viên không đẹp, không cân đối, lồi lõm, gồ ghề…Nói chung là chẳng xứng đáng gì như lời nhận xét của một số kiến trúc sư đến từ TpHCM. Nhưng họ sẽ nghĩ khác nếu biết rằng khuôn viên vườn Đức Mẹ là công trình tim óc và là chứng từ của một thế hệ Linh mục, nữ tu và anh chị em giáo dân La Vang, Phước Môn, Diên Sanh, Trí Bưu… đã đổ biết bao công sức, mồ hôi, nước mắt trong một hoàn cảnh đặc biệt đầy “khó khăn và tế nhị”.
B. TÁI THIẾT LA VANG HIỆN NAY
Năm 1995, Linh mục Giuse Dương Đức Toại được bổ nhiệm quản nhiệm Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc La Vang. Đó cũng là thời gian đất nước gặt hái được nhiều thắng lợi từ chính sách đổi mới, đẩy lùi chế độ bao cấp đã lỗi thời, theo đó việc sửa chữa, tái thiết cơ sở vật chất tôn giáo không còn là chuyện khó dễ. Nhờ vậy, dưới sự lãnh đạo của Đức Tổng Giám mục Têphanô Nguyễn Như Thể, bộ mặt La Vang đã ngày một khởi sắc
1. NHÀ NGUYỆN ĐỨC MẸ
Đó là ngôi nhà nguyện bằng tôn, hơi thấp và nóng, được dựng ngay trên nền cũ Vương Cung Thánh Đường, sau tháp cổ. Dù vậy, nhà nguyện vẫn là nơi thu hút khách hành hương bởi lẽ ở đây có đặt bàn thờ Đức Mẹ với pho tượng THÁNH MẪU LA VANG.
TƯỢNG THÁNH MẪU LA VANG
Nhân dịp kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra tại La Vang, trong cuộc họp ngày 24.02.1998 tại Hà Nội, ban thường vụ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã quyết định chọn pho tượng THÁNH MẪU LA VANG của họa sĩ kiêm điêu khắc gia Văn Nhân, thực hiện tại Hoa Kỳ, làm mẫu tượng chính thức thay mẫu tượng cũ ĐỨC MẸ LA VANG NỮ VƯƠNG CHIẾN THẮNG.
Pho tượng THÁNH MẪU LA VANG đã được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II làm phép ngày 01.07.1998 tại Rôma, trước khi được gởi sang Việt Nam.
Ý nghĩa pho tượng mới được giải thích như sau:
“Đức Mẹ từ ái vận trang phục hoàng hậu, áo trong trắng ngà, áo ngoài xanh thiên thanh viền vàng, tương ứng với đôi hài màu vàng nhạt. Vương miện diễn tả Đức Maria vùa là Người Mẹ nhân từ vừa là Nữ Vương uy linh. Mẹ bồng Chúa Giêsu Hài Đồng trên tay, đầu Mẹ hơi ngả về phía Con, người Con hơi nghiêng về phía Mẹ diễn tả hai Mẹ Con tâm đầu ý hợp đoái nhìn xuống đoàn con dưới thế. Chúa Giêsu Hài Đồng uy nghi trong bộ áo màu hồng, trước ngực có vòng tròn vàng lồng trong hai chữ ALPHA và OMÊGA (Ta là khởi thuỷ và là tận cùng). Trong tư thế của Chúa Tình Thương tuyệt hảo, tay trái Chúa chỉ lên Thánh Tâm đầy thương xót của Người. Vì Mẹ La Vang đã nhận lời nên Chúa đưa tay ban phép lành cho con cái Việt NaM và những ai tín thác nơi Người.”
Còn bức tượng Thánh Mẫu La Vang cùng kiểu dáng nhưng kích thước lớn hơn được đặt tại linh đài là do Hội Đồng Giám Mục Việt Nam dâng kính. Bức tượng này, trong Đại Hội La Vang 26 được thay thế bằng một bức có kích thước tương tự, do họa sĩ điêu khắc gia Văn Nhân sáng tác với khuôn mặt hiền hậu hơn, khăn đóng nhỏ hơn, sậm hơn, không nếp gấp, có đính 12 ngôi sao. Bức tượng cũ hiện được cất giữ ở tu viện MTG La Vang.
2. CÔNG TRƯỜNG MÂN CÔI
Đã được tái thiết hầu như nguyên trạng ban đầu với thành rào bao quanh, sân cỏ, trồng cây, đèn cao áp, lối đi cũng là lộ trình kiệu được lát gạch chạy thẳng từ cổng tam quan đến lễ đài. Các pho tượng mười lăm mầu nhiệm Mân Côi đã được phục hồi nhưng không làm theo nghệ thuật hiện thực kiểu cũ mà làm theo cách điệu trừu tượng kiểu mới.
3. LỄ ĐÀI
Hình ảnh thu nhỏ đàn tế Nam Giao ở Huế với nền vuông (dưới) tượng trưng cho đất và nền tròn (trên) tượng trưng cho trời. Từ hai nền đất vuông tròn hòa hợp ấy vươn lên tám chiếc lọng vàng (thấp), xanh (cao) theo hình tứ trụ. Một chiếc độc lập, cao hẳn trấn thủ đỉnh đài, tạo cảm giác đường bệ uy nghi. Lễ đài vừa là nơi cử hành các thánh lễ đồng tế, vừa dùng làm sân khấu cho những đêm diễn nguyện trong các kỳ đại lễ, đại hội.
4. NHÀ TRUYỀN THỐNG
Một ngôi nhà trệt khang trang kiểu trường học lợp ngói, nhiều phòng. Mỗi phòng đều là nơi chứa các loại sách báo, tượng ảnh, hình ảnh, tranh về, kỷ vật, vật dụng… liên quan đến lịch sử Đức Mẹ La Vang.
Tư liệu trong nhà truyền thống tuy chưa phải là nhiều, chưa thật là quý, nhưng cái đáng quý là ý thức bảo tồn di sản lịch sử bi hùng hơn hai trăm năm Đức Mẹ La Vang của các bậc trách nhiệm.
5. QUẢNG TRƯỜNG THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU
Lùi về phía sau nhà nguyện một quãng, Quảng trường Thánh Tâm được tái hiện gần như nguyện bản bốn mươi năm về trước, trên vị trí cũ. Khác chăng là bàn thờ dưới chân tượng đài thay vì bằng đá cẩm thạch, nay là tấm bê tông lát gạch men trắng.
6. DI TÍCH THÁP CỔ
Như đã nói, chiến cuộc Mùa Hè 1972 và sau đó cơn bão 1985 đã làm sập đổ hoàn toàn Vương Cung Thánh Đường, chỉ còn lại tháp chuông loang lở. Qua 30 năm mưa nắng, tháp cổ đã xuống cấp, chỉ cần một cơn giông gió, nguy cơ sụp đổ là không tránh khỏi. Vì vậy cha quản nhiệm Giuse Dương Đức Toại đã cho gia cố, duy tu để bảo tồn một di tích lịch sử độc đáo tại La Vang.
7. NHÀ TRUNG TÂM
Được cải tạo từ nhà nguyện thời cha Gioang. Tuy vẫn giữ kết cấu nhà lầu một tầng nhưng chia nhỏ tuỳ vào công năng sử dụng. Tầng trệt dùng làm văn phòng, phòng tiếp khách. Tầng trên dùng làm phòng lưu trú cho các cha khi đến tĩnh tâm, đồng tế, điều hành chương mục trong các ngày lễ lớn.
8. NHÀ NGUYỆN THÁNH THỂ
Từ trước đến nay Thánh Thể được đặt trong nhà nguyện Đức Mẹ. Năm 2002, nhà nguyện Thánh Thể được khởi công xây dựng tại địa điểm phía sau nhà nguyện Đức Mẹ.
Ngày 14.06.2002, Đức cha Têphanô chủ sự nghi thức mở cửa và rước MTC từ nhà nguyện Đức Mẹ sang nhà nguyện Thánh Thể.
“Thế là niềm mong ước của chúng con từ bao lâu hôm nay được thực hiện. Chúng con được ngắm MTC hằng ngày, tại thánh địa La Vang, trong nhà nguyện Thánh Thể này… Tuy đây chỉ là một nhà nguyện đơn hèn, nhưng chúng con tin Chúa chỉ nhìn vào tâm hồn chúng con, Chúa chỉ muốn những tâm hồn biết cầu nguyện, những tâm hồn sống trong sạch, sống thánh thiện…”
9. NHÀ HÀNH HƯƠNG
Trong mấy năm gần đây, hai căn nhà tạm thời được đưa vào sử dụng cho khách lưu trú là NHÀ KHÁCH SỐ 1 (dành cho khách đặc biệt) và NHÀ KHÁCH SỐ 2 (dành cho giáo dân). Cả hai căn nhà này đều quá nhỏ so với số người hành hương viếng Mẹ ngày một đông.
Ngày 01.05.2004 Đức TGM Huế đã chủ sự nghi thức đặt viên đá đầu tiên xây dựng NHÀ HÀNH HƯƠNG. Nhà Hành Hương với đồ án 4150 m2, gồm 50 phòng cá nhân, nhiều phòng tập thể, nhà nguyện, phòng sinh hoạt, nhà ăn… Sẽ đưa vào sử dụng vào dịp Đại Hội La Vang 27 (tháng 08.2005).
10. NHỮNG CÔNG TRÌNH KHÁC
Trạm y tế, quầy hàng lưu niệm, hệ thống đường sá, điện nước, nhà vệ sinh… và một khung cảnh vườn Mẹ đang ngày một phong quang xanh tốt.
Nhìn chung, công cuộc tái thiết hiện nay là rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, với những gì đã làm chỉ là tạm thời đáp ứng nhu cầu hành hương của con cái Mẹ đến từ khắp nơi, trong và ngoài nước. Công việc trước mặt còn quá nhiều và quá nặng nề, cần thiết có sự tiếp sức của nhiều người, nhiều giới, nhiều đoàn thể, tổ chức… như lời cha quản nhiệm Giuse Dương Đức Toại đã nói: “Còn khá nhiều, mà là những công trình tương đối lớn. Chẳng hạn như khu đồi Calvê, khu nhà Đại Chúng, nhà Tĩnh Tâm… Không thể ngày một ngày hai mà làm hết được. Phải cần có nhiều thời gian và sự tiếp sức của nhiều người…”
Mọi người có quyền hy vọng và hy vọng sớm về một La Vang thành đô rực rỡ, một Vương Cung Thánh Đường tráng lệ, xứng tầm với danh tiếng Đức Mẹ La Vang mà giới hạn đã vượt quá Giáo hội Việt Nam đến với Giáo hội toàn cầu.